
Ừa hè! Răng mà Mô dại rứa hè, thi thì thi chớ mất chi của bọ mà không thi. Được cái giải rinh về, mấy anh chị em trong xóm chia nhau xì xà xì xụp. Mà lỡ nếu có trượt vỏ chuối thì cũng có ai bắt tù tội chi mà không thi.
Rứa là Mô đăng ký dự thi.
Và thì là rồi:
Cả khán phòng như nổ tung trong tiếng vỗ tay, reo hò của mọi người, khi MC công bố: “Giải khán giả bình chọn thuộc về…Trinh nữ Mô”. Ua chời là chời, khỏi phải nói Mô sướng đến mức mô, chỉ muốn ôm lấy mấy O đứng cạnh mà hun chùn chụt.
Dưng mà phía trước còn mấy giải quan trọng hơn nữa, nên ai nấy vẫn đang căng thẳng chờ đợi. Cả khán phòng lặng phắc hồi hộp dõi theo cái mồm uốn éo làm điệu của MC: “Người đoạt giải ứng xử hay nhất thuộc về…Trinh nữ Mô…”
Khán phòng lại vang lên tiếng reo hò, tiếng vỗ tay vỗ chân huỳnh huỵch. Còn Mô thì nói mần chi nữa, tim đập loạn xà bần trong niềm vui sướng vô bờ bến.
Dưng mà phía trước còn một giải quan trọng hơn. Sau tiếng reo hò, vỗ tay, cả khán phòng lại lặng phắc, mặt mũi ai nấy đều căng ra như sắp sửa uýnh nhau để chờ đợi từ cái mồm MC thốt ra điều quan trọng nhứt: “Và sau đây Vương miện áo dài duyên dáng nhất thuộc về…” Nói tới đây MC dừng lại cười cười nhìn khán giả.
“Chời ạ! Ai được thì nói luôn đi cha nội”. Mô muốn hét lên như rứa vì quá sốt ruột, chỉ muốn chạy nhào tới giật phắt tờ giấy trên tay gã MC kia mà coi thử ai trúng cái giải danh giá nhứt ni, nhưng mà sực nhớ mình đang là thí sinh, cần tranh thủ sự cảm tình của khán giả, nên Mô cố nhăn nhở cười cười, làm duyên làm dáng, nhưng mà trong bụng thì sôi sùng sục lắm.
Dấm dứ một hồi, cuối cùng MC cũng phải nói cái điều cần nói: “Và sau đây, Vương miện áo dài duyên dáng nhất thuộc về…Trinh…nữ…Mô…”
Chời ơi là Chời! Khán phòng như bị trúng bom nguyên tử, cứ gọi là nổ tung lên trong tiếng reo hò cuồng nhiệt.
Mô cũng nhảy cà tưng cà tưng, nhảy mạnh đến độ giật mình thức dậy. Hoá ra là một giấc mơ chời ạ!
Thì ra, vì quá thương tà áo dài tha thướt, đã khiến Mô phải nhập tâm đến vậy. Mà đâu phải riêng Mô, hầu hết người Việt Nam, dù sống trong nước hay ở nước ngoài, chiếc áo dài vẫn luôn là niềm tự hào, là vẻ đẹp không thể trộn lẫn trong nền văn minh nhân loại.
Nhật Bản có kimono, Hàn Quốc có hanbok…trông cũng đẹp đấy, nhưng dù khiêm tốn đến mấy thì Mô cũng tự hào mà nói rằng: “Áo dài Việt Nam nhà choa đẹp hơn nhà bây!”.
Mà đẹp hơn thiệt ấy chứ lị!
Chứ gì nữa! Này thì nhé, ngay từ cách đây hàng nghìn năm, khi nước Việt mới được hình thành, áo dài đã được phụ nữ Việt sử dụng với hai tà áo xẻ. Rồi từ đó, áo dài đã được cải tiến cho phù hợp với từng giai đoạn phát triển của nền văn minh nước nhà, mà nổi bật là từ thời Chúa Nguyễn Phúc Khoát, thời vua Minh Mạng, thời “Đời sống mới”, rồi thì là “Áo dài Le Mur”, “Áo đài Lê Phổ”, “Áo dài Giác lăng”, “Áo dài miniraglan”.
Nhưng nổi bật nhất là “Áo dài cổ thuyền” do bà Trần Lệ Xuân, Đệ nhất Phu nhân VNCH thiết kế ra kiểu áo dài cách tân mới bỏ đi phần cổ áo gọi là áo dài cổ thuyền, cổ hở, cổ khoét cho phù hợp với khí hậu nước Nam, dân gian gọi là áo dài Trần Lệ Xuân hay áo dài bà Nhu. Mặc dù thời đó cũng có tiếng ra tiếng vào, nhưng kiểu áo này cho đến nay vẫn phổ biến.
Có thể nói, qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, áo dài vẫn thuỷ chung son sắt, vẫn gắn bó với bao thế hệ và được xem như một biểu trưng của Việt Nam. Tới mức tại hội nghị APEC năm 2006, các quan chức tới tham dự đã được “diện” những bộ áo dài thêu gấm thêu hoa tuyệt đẹp. Tự hào lắm chứ, đẹp đẽ lắm chứ!
Và thì nữa, áo dài đã đi vào thơ vào nhạc, đã có biết bao nhà thơ, thi sỹ ngẩn ngơ nhìn những tà áo dài thướt tha bay trong gió để viết nên những tuyệt phẩm để đời:
“Áo trắng đơn sơ mộng trắng trong
Hôm xưa em đến mắt như lòng
Nở bừng ánh sáng em đi đến
Gót ngọc dồn hương bước tỏa hồng (Áo trắng- Huy Cận).
“Nắng Sài Gòn anh đi mà chợt mát
Bởi vì em mặc áo lụa Hà Đông…” (Áo lụa Hà Đông-Nguyên Sa)
“Tà áo em… bay, bay, bay, bay… trong gió nhẹ nhàng…
Dù ở đâu, Paris, Luân Đôn hay ở những miền xa. Thoáng thấy áo dài bay trên đường phố, sẽ thấy tâm hồn quê hương ở đó… em ơi…” (Một thoáng quê hương – Từ Huy).
Ấy là áo dài trong mắt các nhà sử học, các nhà thiết kế và các nhà văn, nhà thơ, nhà vẽ, nhà đàn và các nhà chi chi nữa…
Còn đối với người trần mắt thịt như Mô, thì khi mô đi trên đường mà thấy một áo dài tha thướt, là y như thì là rằng Mô cứ dòm theo cho đến sái cổ, bụng thì nghĩ lắc la lắc lẻm: “Ua Chời ơi là Chời! Con cái nhà ai mà xinh rứa hè, mà dịu dàng e ấp rứa hè. Nhìn răng mà thương thương rứa!”
Đêm đó Mô ngủ chỉ mơ mơ màng màng, vì hễ cứ nhắm mắt lại là hình bóng người con gái với tà áo dài thướt tha trong gió cứ ám ảnh khiến Mô cứ trăn đi trở lại không tài chi mà ngủ được.
Thôi thì nói ri cho ngắn: Chiếc áo dài Việt Nam thiệt là đẹp! Người con gái Việt Nam mặc chiếc áo dài thiệt là đẹp, thiệt là dịu dàng, thiệt là đáng yêu. Ua mà mô phải chỉ con gái VN mặc áo dài mới đẹp. Nhiều phụ nữ nước ngoài khi sang Việt Nam thể nào cũng kiếm cho được một bộ áo dài về làm kỷ niệm.
Ngay như cái bà thủ tướng Đức Méc Ken Méc Cơ chi chi đó, hồi dự hội nghị APEC cũng mặc áo dài Việt Nam. Nghe nói được người ta khen đẹp, bả cứ mặc mãi đến khi hôi òm mới chịu cởi ra thay

Đó là Mô khen những bà, những chị, những em mặc áo dài đúng kiểu đúng cách thì mới đẹp, chớ ăn mặc theo kiểu kệch cỡm thì eo ôi hỏng có dòm được.
Răng là đúng kiểu và răng là kệch cỡm a?
Thì là nhé: Muốn mặc áo dài Việt Nam đẹp, trước hết phải có cho được một khuôn mặt thuần Việt Nam. Nghĩa là mái tóc phải đen (chớ không nhuộm vàng vàng như mấy O hiện nay, tóc nhìn không ra Tây, mặt nhìn không ra ta, giống đi nắng bị cháy loang cháy lổ, trông gớm chết).
Thứ nữa là phải có nét mặt dịu dàng rất chi là Việt Nam. Chớ không phải như một số O, tuy mặc áo dài trắng tinh nền nã, nhưng khi “lâm trận” mặt mũi cứ gọi là lửng bà xửng, trông kinh hồn trận quá!
Thứ nữa là phải đi đứng khoan thai, nói năng nhỏ nhẹ cho ra người phụ nữ Việt Nam thanh lịch, chớ không phải như nhiều O hiện nay, mặc áo dài tha thướt thiệt đấy, nhưng mà khi mở mồm ra nói thì ối giời ôi, đến cóc nhái cũng phải xí hổ mà chui vô hang. Còn khi đi thì nện guốc nhót cứ gọi là ngựa chiến cũng phải chào thua.
Thứ nữa là khi ngồi cũng phải cho ra kiểu ngồi của người phụ nữ. Nghĩa là ngồi răng cho nó kín đáo, khi ngồi trên ghế phải vén tà áo sau ra trước một cách nhẹ nhàng. Chớ không phải như nhiều O hiện nay, bạ đâu là ngồi phịch xuống một phát, mặc cho tà áo sau thành cái…lót đít, hoặc nữa thì trở thành một miếng vải bay phơ phất…sau mông. Thậm chí có O còn ngồi xổm như muốn xoè ra để…khoe hàng!
Cũng vì rứa nên người xưa mới có bài ca dao “Mười thương” để mà răn dạy người con gái:
Một thương tóc bỏ đuôi gà
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt hữu tình với ai?
Hai thương ăn nói mặn mà có duyên
Ba thương má lúm đồng tiền
Bốn thương răng nhánh hạt huyền kém thua
Năm thương cổ yếm đeo bùa
Sáu thương nón thượng quai tua dịu dàng
Bẩy thương nết ở đoan trang
Tám thương ăn nói lại càng thêm xinh
Chín thương cô ở một mình
Mười thương con mắt hữu tình với ai?
Cũng vì rứa, khi nhìn những tà áo dài bay bay trong gió, Mô lại thốt lên: “thương lắm áo dài ơi!”.
Ấy là Mô muốn nói rằng, nhìn người phụ nữ Việt Nam, nhất là các O đang trẻ tuổi dịu dàng e ấp trong chiếc áo dài trông thương thật là thương.
Nhưng cũng thật thương cho những chiếc áo dài theo nghĩa đen đã tìm lạc chủ, khiến nó trở thành một vật dụng rẻ tiền theo nghĩa bóng, trông mới thảm hại, mới đáng thương làm sao…
Xin mượn mấy câu thơ của thi sỹ Phan Long để kết lại entry này:
Em yêu mến chiếc áo dài,
Thướt tha duyên dáng đẹp hoài thời gian.
Ngày xuân nắng trải tơ vàng,
Khoe tà áo mới ngập tràn tuổi thơ.
Lớn theo lứa tuổi học trò
Tình che vạt trước gió lùa vạt sau.
Những ngày đẹp măi bên nhau,
Vạt vui in dấu vạt sầu còn vương.
Đẹp sao tà áo quê hương,
Áo dài màu trắng nhớ thương năm nào.
(Phan Long)
Thướt tha duyên dáng đẹp hoài thời gian.
Ngày xuân nắng trải tơ vàng,
Khoe tà áo mới ngập tràn tuổi thơ.
Lớn theo lứa tuổi học trò
Tình che vạt trước gió lùa vạt sau.
Những ngày đẹp măi bên nhau,
Vạt vui in dấu vạt sầu còn vương.
Đẹp sao tà áo quê hương,
Áo dài màu trắng nhớ thương năm nào.
(Phan Long)
Bài đọc thêm
Lịch Sử Áo Dài VN Qua Các Thời Đại | ![]() | ![]() | ![]() |
Khi nói đến khía cạnh thẩm mỹ, văn hóa và trang phục truyền thống của người Việt Nam, người ta thường nghĩ ngay đến tà áo dài và chiếc nón lá, |

.
Áo dài Việt Nam – những chặng đường lịch sử.
Ngược dòng thời gian tìm về cội nguồn, hình ảnh chiếc áo dài Việt với hai tà áo thướt tha trong gió đã được tìm thấy qua các hình khắc trên mặt trống đồng và hiện vật Đông Sơn cách ngày nay hằng nghìn năm (2879.BC-258.BC):


Trang phục Việt cổ thể hiện trên kiếm đồng Đông Sơn.
.
Truyền thuyết kể lại rằng khi cưỡi voi xông trận, Hai Bà Trưng (40-43.AD) đã mặc áo dài hai tà giáp vàng, che lọng vàng. Do tôn kính hai bà, phụ nữ Việt xưa tránh mặc áo hai tà mà thay bằng áo tứ thân.
Theo thời gian, trong khoảng từ thế kỷ 17 đến thế kỷ 19, để có dáng dấp trang trọng và mang vẻ quyền quý hơn, phụ nữ nơi thành thị đã biến tấu kiểu áo ngũ thân từ chiếc áo dài tứ thân nhằm thể hiện sự giàu sang cũng như địa vị xã hội của người phụ nữ. Giống như một quy luật, trang phục cũng đi liền với diễn biến của lịch sử, chiếc áo dài ngũ thân vẫn không thể là điểm dừng của trang phục truyền thống Việt Nam.


Áo dài tứ thân.
Trong sách “Relation de la Nouvelle Mission des Péres de la Compagnie de Jesus au Royaume de la Cochinchine”, xuất bản tại Lille năm 1631, giáo sĩ Borri đã tả rõ về cách ăn mặc của người Việt ở đầu thế kỷ 17: “Người ta mặc năm sáu cái áo dài, áo nọ phủ lên áo kia, mỗi cái một màu… Phần dưới thắt lưng của mấy lớp áo ngoài được cắt thành những dải dài. Khi đi lại, các dải này quyện vào nhau trông đẹp mắt…”
Có lẽ giáo sĩ Borri đã hiểu lầm về số lớp áo được người Việt xưa mặc mỗi khi ra ngoài. Thật ra mấy lớp áo bên ngoài bị cắt thành các dải dài bên dưới thắt lưng mà giáo sĩ Borri nhắc đến chỉ là cái xiêm cánh sen, hoặc có nơi gọi là quầy bơi chèo, mà người xưa mặc trước ngực hay dưới thắt lưng bên ngoài áo dài. Xiêm này có ba hoặc bốn lớp dải lụa may chồng lên nhau. Lớp dải trong cùng dài nhất, rồi các lớp bên ngoài ngắn dần. Bức tượng Ngọc Nữ tạc từ thế kỷ 17 ở chùa Dâu, Bắc Ninh, là minh chứng rõ nhất cho cả áo dài, các giải cánh sen, lẫn cách vấn khăn mà giáo sĩ Borri đã mục diện từ bốn thế kỷ trước đây.


Tượng Ngọc Nữ (thế kỷ 17)
Năm 1819, cách ăn mặc của người dân vẫn giống như giáo sĩ Borri đã thấy ở Thuận Quảng từ hơn hai thế kỷ trước đó với quần lụa đen và áo may sát người dài đến mắt cá chân.
Cho đến đầu thế kỷ 20, phần đông áo dài phụ nữ thành thị đều may theo thể năm thân, hay năm tà. Mỗi thân áo trước và sau đều có hai tà, khâu lại với nhau dọc theo sống áo. Thêm vào đó là tà thứ năm ở bên phải, trong thân trước. Tay áo may nối phía dưới khuỷu tay vì các loại vải ngày xưa chỉ dệt được rộng nhất là 40cm. Cổ, tay và thân trên áo thường ôm sát người, rồi tà áo may rộng ra từ sườn đến gấu và không chít eo. Gấu áo may võng, vạt rất rộng, trung bình là 80cm. Cổ áo chỉ cao khoảng 2 – 3cm.


Riêng ở miền Bắc khoảng năm 1910 – 1920, phụ nữ thích may thêm một cái khuyết phụ độ 3cm bên phải cổ áo, và cài khuy cổ lệch ra đấy. Cổ áo như thế sẽ hở ra cho quyến rũ hơn và cũng để diện chuỗi hột trang sức nhiều vòng.

Phần nhiều áo dài ngày xưa đều may kép, tức là may có lớp lót. Lớp áo trong cùng thấm mồ hôi, vì thế được may đơn bằng vải mầu trắng để không sợ bị thôi mầu, dễ giặt. Một áo kép mặc kèm với một áo lót đơn ở trong đã thành một bộ áo mớ ba. Quần may rộng vừa phải, với đũng thấp.

Thuở đó, phần đông phụ nữ từ Nam ra Bắc đều mặc quần đen với áo dài, trong khi phụ nữ Huế lại chuộng quần trắng. Đặc biệt là giới thượng lưu ở Huế hay mặc loại quần chít ba, nghĩa là dọc hai bên mép ngoài quần được may với ba lần gấp, để khi đi lại quần sẽ xòe rộng thêm.
Trong các thập niên 1930 và 1940, cách may áo dài vẫn không thay đổi nhiều, gấu áo dài thường được may trên mắt cá khoảng 20cm, thường được mặc với quần trắng hoặc đen.
Những cách tân đầu tiên
Một vài nhà tạo mẫu áo dài bắt đầu xuất hiện trong giai đoạn này, nhưng gần như họ chỉ bỏ được phần nối giữa sống áo, vì vải phương Tây dệt được khổ rộng hơn. Tay áo vẫn may nối. Nổi nhất lúc ấy là nhà may Cát Tường ở phố Hàng Da, Hà Nội. Năm 1939 nhà tạo mẫu này tung ra một kiểu áo dài được ông Âu hóa. Áo Le Mur vẫn giữ nguyên phần áo dài may không nối sống bên dưới. Nhưng cổ áo khoét hình trái tim. Có khi áo được gắn thêm cổ bẻ và một cái nơ ở trước cổ. Vai áo may bồng, tay nối ở vai. Khuy áo may dọc trên vai và sườn bên phải. Nhưng kiểu áo này chỉ tồn tại đến khoảng năm 1943.

Thiếu nữ Hà Nội xưa với áo dài Lemur
.
Đến khoảng năm 1950, sườn áo dài bắt đầu được may có eo. Các thợ may lúc đó đã khôn khéo cắt áo lượn theo thân người. Thân áo sau rộng hơn thân áo trước, để áo ôm theo thân dáng mà không cần chít eo. Vạt áo cắt hẹp hơn. Thân áo trong được cắt ngắn dần từ giai đoạn này. Cổ áo bắt đầu cao lên, trong khi gấu được hạ thấp xuống.

Áo dài được thay đổi nhiều nhất trong thập kỷ 60, áo dài bắt đầu được may chít eo, eo áo cắt cao lên. Gấu áo lúc này cắt thẳng ngang và may dài gần đến mắt cá chân. Nhiều người sau đó còn may áo dài với cổ khoét tròn. Đến gần cuối thập kỷ 60, áo dài mini trở thành thời thượng. Vạt áo may hẹp và ngắn, có khi đến đầu gối, áo may rộng hơn, không chít eo nữa, nhưng vẫn giữ đường lượn theo thân thể. Cổ áo thấp xuống còn 3cm. Tay áo cũng được may rộng ra.

Đặc biệt trong khoảng thời gian này, vai áo dài bắt đầu được cắt lối raglan để ngực và tay áo ôm hơn, nhăn ít, mà lại đỡ tốn vải. Tay áo được nối với thân từ chéo vai. Quần may rất dài với gấu rộng đến 60cm và nhiều khi được lót hai ba lớp. Đến những năm 90, áo dài đã trở lại, cầu kỳ hơn, thanh nhã hơn và bắt đầu được bạn bè Quốc Tế nghĩ tới như là một biểu tượng của người phụ nữ Việt Nam.
(Doremon360 tổng hợp từ bài viết của tác giả Thùy Mai và Dung Nguyen design, bổ sung thêm tư liệu và hình ảnh sưu tầm)
.
Phục lục : Một vài hình ảnh áo dài Việt Nam xưa và nay:






Tác giả: Kim Luân-An Việt
0 nhận xét:
Đăng nhận xét