(8)
Lại nói chuyện sau trận lụt kinh hoàng năm 1953, cậu mẹ tôi đã thoát hiểm nhờ một ngư phủ cứu đưa lên bờ đê ở tạm, sau đó ông quay lại đưa đi nơi khác vừa lúc đê vỡ nên không bị chết đuối, lại được một người đàn bà tên là bà Đĩ Sáu cho một rá cơm cầm hơi mấy ngày nên không bị chết đói, một người bán cá giúp đỡ đưa cậu tôi về Cửa Hội chụp ảnh cho cán bộ miền Nam tập kết ra Bắc. Nhưng việc này không thành vì chính quyền ở đó không cho chụp ảnh để bảo đảm công tác phòng gian bảo mật.Lúc này nước cũng đã rút. Cậu mẹ tôi quyết định trở về nhà. Sau một thời gian khôi phục nhà cửa, nạo vét bùn đất cuộc sống dần trở lại ổn định. Nhưng một nguy cơ khác lại xuất hiện. Sau trật lụt, phần lớn những người dân ở chợ Tràng nói riêng, huyện Hưng Nguyên nói chung đều bị mất trắng tài sản, cuộc sống của họ rơi vào cảnh túng quẫn, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, do đó những thú chơi xa xỉ như chụp ảnh hầu như không ai ngó ngàng tới.
Vì thế, hiệu ảnh Nguyễn Ninh của cậu tôi gần như bị đóng cửa, có khi cả tháng trời không hề có một người khách nào lai vãng. Nguy cơ đứt bữa đã bắt đầu lộ diện. Mỗi bữa, cậu mẹ tôi chỉ dám ăn chút ít cơm và thức ăn để cầm cự với hũ gạo ngày càng vơi. Đã vậy căn bệnh đau dạ dày tá tràng của cậu tôi lại thừa cơ trỗi dậy. Vậy nên, tiền ăn đã thiếu lại còn phải bớt đi để mua thuốc nên bữa ăn ngày càng đạm bạc hơn. Đúng vào lúc nguy nan này, một cơ hội mới lại cứu thoát cậu mẹ tôi thoát khỏi nạn đói. Đó là mùa Đông đang tới.
Cũng cần phải kể thêm về thời tiết ở đây để bạn đọc không phải là người xứ Nghệ rõ. Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, chịu ảnh hưởng của gió phơn (hay còn gọi là gió Lào) tây nam khô và nóng. Vào mùa đông, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt. Xuất phát từ đặc điểm này, nên về mùa hạ Nghệ An rất nóng, với những cơn gió Lào thổi ràn rạt suốt mấy tháng ròng, khiến cho cây cối nhiều khi bị khô cháy, còn con người thì sạm đi vi nắng và gió. Mùa đông thường rất rét và mưa nhiều. Những cơn mưa dầm dề tháng này sang tháng khác khiến muôn vật như cóng lại trong một màu ảm đạm, độ ẩm nhiều khi lên tới trên 80% khiến người ta cảm giác rằng cả đất trời trở nên nhão nhoét.
Nhưng chính cái sự nhão nhoét ẩm ướt và lạnh lùng đó đã trở thành cứu tinh cho gia đình tôi. Vốn xuất thân từ thợ dệt, nên việc đan len đối với mẹ tôi không mấy khó khăn. Nhận thấy người dân trong vùng đang thiếu áo ấm, mẹ tôi đã quyết định mua sợi về đan áo bán. Thế là, ngày ngày cậu tôi ở nhà trông con, mẹ tôi gánh đôi bồ hàng xén đi chợ, những khi vắng khách mẹ tôi lại đem sợi ra đan. Tối về, sau khi cơm nước xong, mẹ tôi lại cặm cụi đan áo. Quả đúng như dự tính, đan được chiếc áo nào bán được ngay chiếc đó, thậm chí mẹ tôi không đủ sức để đan theo đặt hàng ngày càng nhiều nữa.
Lúc này, chiến dịch Điện Biên Phủ đã vào hồi quyết liệt, lớp lớp thanh niên lên đường chiến dịch. Vừa ra trận, họ vừa hát vang bài ca rực lửa từ thời Xô viết Nghệ Tĩnh của những năm 30-31 “Hỡi công nông binh Nghệ An ta ơi/Đời ta cực khổ đã nhiều rồi/Trường Thi Bến Thuỷ hận còn sôi/Toàn dân ta nay đã quyết/Quyết vùng lên tháo hết xích xiềng/Ta đã vùng lên tháo hết xích xiềng…” hoặc những bài hát sáng tác trong thời kỳ này “Đoàn Vệ quốc quân một lần ra đi/ Dù có gian nguy nhưng lòng không nề/ Ra đi ra đi bảo tồn sông núi/ Ra đi ra đi thà chết chớ lui…”
Để yên lòng các chàng trai ra trận, các cô thôn nữ lại tiếp tục tặng người yêu những chiếc khăn tay thêu những đôi chim bồ câu quấn quýt và những lời thề hẹn ước. Nhiều cô còn tặng cả những chiếc áo do mẹ tôi đan. Chắc rằng dưới lớp áo trấn thủ kia, chiếc áo sợi đó cũng làm thêm ấm lòng chiến sỹ. Nhưng có điều ít ai biết là những chiếc khăn đó, những chiếc áo sợi đó đã cứu một gia đình qua cơn khốn khó.
Trận chiến Điện Biên Phủ kết thúc huy hoàng với chiến thắng thuộc về quân đội của Tướng Võ Nguyên Giáp vào ngày 7/5/1954, để buộc Đế quốc Pháp ngay ngày hôm sao đã phải ngồi vào bàn tiếp tục thực hiện cuộc đám phán tại Giơ – ne – vơ (Thuỵ Sỹ). Tính ra phải trải qua 75 ngày thương lượng, có 8 phiên họp rộng và 23 phiên họp hẹp cấp trưởng đoàn rất căng thẳng; hai đồng chủ tịch Mô-lô-tôp – Ngoại trưởng Liên Xô, Ê-đen – Ngoại trưởng Anh, thay phiên nhau làm chủ tọa hội nghị; chỉ sau chiến thắng Điện Biên Phủ; Hiệp định Giơ-ne-vơ về lập lại hòa bình ở Đông Dương đã được ký kết vào ngày 21 tháng 7 năm 1954. Theo Hiệp định đã ký kết, nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền qua vĩ tuyến 17, mặc dù sự thận trọng của các bên tham gia Hội nghị nhấn mạnh rằng “Dù bất cứ trường hợp nào, không thể coi đó là biên giới chính trị hay lãnh thổ”. Sự chia cắt đó chỉ là tạm thời. Hai miền phải thống nhất trước tháng 7 năm 1956 bằng tổng tuyển cử “tự do và dân chủ”. Nước Pháp phải rút quân khỏi miền Bắc và Việt Minh rút khỏi miền Nam trong thời hạn 300 ngày; thường dân có quyền lựa chọn muốn ở miền Bắc hay miền Nam, trong thời gian đó, họ được tự do đi lại. Nghiêm cấm quân đội nước ngoài xâm nhập lãnh thổ Việt Nam. Một Ủy ban Giám sát quốc tế gồm có Ba Lan, Ấn Độ và Canada sẽ giám sát việc thi hành các điều khoản của Hiệp định.
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta chống thực dân Pháp xâm lược bắt đầu từ ngày 23-9-1945, kết thúc ngày 20-7-1954 như thế đó.
Sau khi hiệp định Giơ – ne – vơ được ký kết, Nhà nước có chủ trương cho những người dân ở các thành phố, thị xã được phục hồi. Thế là, sau chín năm tiêu thổ kháng chiến, mùa thu năm 1954; những thị dân đi tản cư ở khắp mọi nơi bắt đầu lục tục trở về. Cậu mẹ tôi cũng nằm trong số đó.
Lúc này, thị xã Vinh chỉ là một đô thị bé nhỏ tiêu điều xơ xác. Thay vì những công sở, nhà xây mái ngói trước kia giờ chỉ còn những đống đổ nát hoang tàn, cây cỏ rậm rì. Để xây dựng lại cuộc sống mới, người dân thị xã đã mạnh ai nấy tìm cho mình một mảnh đất để dựng nhà. Cậu mẹ tôi cũng đã tìm được một mảnh đất hình tam giác được tạo bởi hai con đường (…) nằm tại Cổng Chốt, khu phố 2, nay thuộc phường Cửa Nam (TP Vinh). Sau đó cậu mẹ tôi đã thuê người dỡ ngôi nhà tranh vách nứa ở chợ Tràng về dựng lại. Thợ làm nhà cho cậu mẹ tôi là những người nông dân chất phác ở một xã cửa ngõ thị xã Vinh về phía nam thuộc huyện Hưng Nguyên.
Lúc này mẹ tôi vừa phải nuôi con nhỏ, vừa phải chăm chồng ốm đau lại đang mang thai đứa con thứ hai, nên cuộc sống vô cùng vất vả. Do vậy trong khi dựng lại nhà, số tiền kiếm được chỉ đủ để chi dùng sinh hoạt hàng ngày. Cậu mẹ tôi rất lo lắng, không biết xoay xở đâu ra tiền để trả công cho thợ. Một lần hai vợ chồng than thở với nhau về điều này, không hiểu sao những người thợ kia nghe được. Họ bàn bạc với nhau và một người thợ nói với cậu mẹ tôi đại ý là không nên lo lắng gì cả, miễn sao làm được nhà ở, còn tiền công khi nào có trả sau cũng được.
Cậu mẹ tôi rưng rưng trước tấm chân tình của những người thợ nông dân. Họ cũng rất nghèo, cơm không đủ ăn, áo không đủ mặc, nhưng trước hoàn cảnh gian khó của đồng loại, họ đã không ngần ngại sẻ chia, thậm chí còn an ủi động viên để cậu mẹ tôi an tâm vững dạ.
Nhà vừa làm xong, chưa kịp vui mừng thì tai hoạ lại ập tới. Mùa thu năm 1954, một trận bão lớn quét qua thị xã Vinh. Cơn cuồng phong mạnh đến nỗi chính quyền thị xã phải ra thông báo khẩn, kêu gọi người dân tìm nơi tránh bão, đồng thời cho ô tô chạy khắp các nẻo đường để cứu dân. Trong đám người nhốn nháo hoảng loạn đó có gia đình cậu mẹ tôi. Một tay bế con thơ, một tay dìu người chồng đau ốm, mẹ tôi đã cố gắng bươn bả trong hỗn độn để leo lên một chiếc xe tải và cả gia đình được đưa tới tránh bão tại Nhà thờ Cầu Rầm. Đây là nơi thờ Chúa của bà con giáo dân thuộc giáo xứ Cầu Rầm, được xây dựng từ thời Pháp trên một khuôn viên rộng rãi (nay thuộc phường Cửa Nam – TP Vinh) nằm trên đường Phan Đình Phùng . Khuôn viên gồm nhà thờ với đầy đủ các công trình phụ trợ của một Giáo hạt lâu đời. Nhà thờ Cầu Rầm không chỉ là niềm tự hào của bà con giáo dân ở đây mà còn là niềm tự hào của người dân thị xã Vinh. Tiếng chuông nhà thờ Cầu Rầm thời bấy giờ nay vẫn còn ngân vang trong trái tim, khối óc của những ai sinh ra và lớn lên ở thị xã Vinh, nó lại càng được tôn vinh hơn khi trở thành nơi ẩn náu cho hàng nghìn người dân cả lương lẫn giáo trong trận bão này.
Sau khi bão tan, cuối ngày hôm đó vợ chồng con cái gia đình cậu mẹ tôi lại cùng người dân thị xã dắt díu nhau về nhà. Ngôi nhà tranh tre nứa lá mới dựng của cậu mẹ tôi xiêu vẹo, xác xơ trong phong ba bão táp. Trước uy lực của thiên nhiên, cậu mẹ tôi chỉ biết thở than không biết phải làm cách nào khi trong túi không còn một xu, ngay đến tiền công cho thợ cũng chưa có trả.
Trong lúc bối rối trước cảnh hỗn mang thì những người thợ làm nhà xuất hiện. Cậu mẹ tôi rất lo lắng vì nghĩ rằng họ tìm đến để đòi tiền công. Nhưng không! Những người thợ đã tìm đến gia đình tôi bằng tất cả tấm lòng nhân ái. Biết rằng trận bão thể nào cũng làm ngôi nhà hư hỏng, họ đã đến để tự nguyện dựng lại ngôi nhà và kèm theo đó là những lời động viên chia sẻ. Sau khi ngôi nhà được dựng lại xong, họ lại ra về với lời an ủi cậu mẹ tôi khi nào có tiền thì trả cho họ cũng được. Khi viết tới đây, trong tôi lại rưng rưng một niềm cảm xúc và lòng biết ơn vô hạn đối với những người thợ nông dân thuần phác, vô tư ấy!
Một dịp may đã cứu cậu mẹ tôi thoát khỏi khó khăn sau ngày phục hồi. Đó là vào thời gian này, ở miền Bắc nói chung và thị xã Vinh nói riêng dấy lên phong trào di cư vào Nam của bà con công giáo. Tại thị xã Vinh nhiều bà con cũng nô nức lên đường theo tiếng gọi của Thiên Chúa. Vì thế, vào dịp này, hiệu ảnh Nguyễn Ninh của cậu mẹ tôi nườm nượp khách chụp ảnh. Mẹ tôi kể vào lúc này gần như không còn thời gian để nghỉ, để ăn nữa. Cậu tôi thì chụp ảnh liên tục hết đợt người này đến đợt người khác. Còn mẹ tôi, một tay bế con, một tay ghi hoá đơn, tiền chụp ảnh ấn đầy một chiếc hộp lớn, đến cuối ngày mới có thể đếm để cất đi.
Chắc chắn rằng bây giờ ở nhiều gia đình gốc Vinh và các vùng phụ cận thị xã Vinh hiện đang sống trong và ngoài nước, trong những cuốn album của gia đình họ vẫn còn lưu giữ những bức ảnh đen trắng hoặc tô màu do cậu mẹ tôi chụp, ở góc ảnh có đóng dấu nổi dòng chữ “Photo Nguyễn Ninh”.
Với số tiền kiếm được qua việc chụp ảnh cho đồng bào di cư, cậu mẹ tôi đã cải thiện được phần nào cuộc sống, mua sắm được một số tiện nghi sinh hoạt gia đình và phương tiện hành nghề, ngoài ra có đủ tiền để trả nợ cho những người thợ làm nhà…
(Còn nữa)
0 nhận xét:
Đăng nhận xét