Cuộc đời tôi là một chuyến phiêu lưu đầy mạo hiểm. Nếu một nửa sự thật là giả dối như người ta thường nói, thì một trăm phần trăm câu chuyện này giả dối như chính cuộc đời tôi!
(7)
Lại nói chuyện sau khi bị ông nội tôi đánh, cậu tôi quyết định từ nay không ở với ông bà nội tôi nữa và chuyển về chợ Tràng (Hưng Nguyên) sinh sống. Khi nghe cậu tôi tuyên bố như thế, mẹ tôi rất mừng, nhưng ngoài mặt mẹ tôi vẫn cố khuyên can. Cậu tôi vẫn dứt khoát không chịu. Thế là ngay chiều hôm ấy cậu mẹ tôi đã gói ghém đồ đạc trở về chợ Tràng…Đó là vào năm 1953.
Chợ Tràng là một khu chợ nhỏ thuộc huyện Hưng Nguyên gần rú (núi) Thành. Chợ có từ lâu đời, nhưng từ khi dân thị xã Vinh tiêu thổ kháng chiến sơ tán về đây nhiều, chợ Tràng ngày càng sầm uất. Trong những ngày đầu về đây, cậu mẹ tôi ở nhờ một nhà dân địa phương. Nhà này vốn trước kia bà ngoại tôi cũng đã từng ở. Người dân ở đây rất tốt, họ sẵn sàng cưu mang, nhường cơm sẻ áo đối với những thị dân đi sơ tán gặp khó khăn hoạn nạn.
Những ngày đầu ở chợ Tràng biết bao khó khăn chồng chất. Ngay từ khi còn thanh niên cậu tôi không được khoẻ, ông vốn bị đau dạ dày tá tràng nên người lúc nào cũng mảnh khảnh và không làm được việc nặng. Có lẽ đây cũng là lý do ông học nghề ảnh để mưu sinh. Khi về chợ Tràng, bệnh dạ dày của ông trở chứng ngày càng nặng hơn, một phần do thiếu vốn nên không đủ điều kiện để mở hiệu ảnh, vì thế mẹ tôi phải cáng đáng bằng cách sắm một gánh hàng xén ngày ngày ra bán ở chợ Tràng. Lúc này mẹ tôi có thai chị gái đầu của tôi sắp tới ngày sinh, nhưng ngày ngày sau buổi chợ về, mẹ tôi lại thêu khăn tay để bán. Được cái, tuy sức khoẻ yếu nhưng cậu tôi là người rất khéo tay, đặc biệt ông vẽ rất giỏi.
Lúc này, cuộc kháng chiến chống Pháp đã bước vào giai đoạn hết sức ác liệt, hầu hết nhân tài vật lực đều tập trung cho chiến dịch Điện Biên Phủ. Ở Nghệ An, lớp lớp thanh niên lên đường tòng quân nhập ngũ. Các cô gái ở lại hậu phương gửi thương nhớ vào những món quà nho nhỏ, chủ yếu là những chiếc khăn tay. Do hồi đó các thôn nữ phần lớn đều mù chữ, nên ban đầu họ nhờ cậu tôi viết và vẽ vào những chiếc khăn để tặng người yêu. Tiếng lành đồn xa, dần dà có nhiều người đến nhờ cậu tôi giúp và sau đó họ trả tiền hoặc bằng các nông thổ sản. Từ đó, cậu mẹ tôi đã có sáng kiến viết và vẽ lên khăn tay để đem ra chợ bán. Những sản phẩm đầu tiên được bán hết ngay ngày đầu và nhiều cô gái yêu cầu đặt mua thêm.
Thế là từ đó, ngày đêm cậu mẹ tôi người viết vẽ, người cặm cụi thêu khăn. Dưới bàn tay tài hoa của cậu tôi, trên nền vải phin trắng những bức hình và những dòng chữ mềm mại hiện lên. Phần lớn các cô gái đều thích những chiếc khăn có thêu đôi bồ câu quấn quýt bên nhau với hai chữ “Hạnh Phúc”, hoặc “Đợi chờ”…Có người còn đề nghị thêu những dòng chữ: “Trai tiền tuyến-Gái hậu phương”, “Anh đi tiền tuyến lập công-Hậu phương em đợi chờ mong ngày về”…Bây giờ nếu tặng nhau những kỷ vật đó chắc sẽ bị cười là “hâm tỷ độ” nhưng vào thời kỳ này thì đó là những tặng vật vô giá. Cũng nhờ việc viết vẽ, thêu và bán những chiếc khăn tay này, cậu mẹ tôi có thêm một khoản thu nhập đáng kể để sinh sống qua ngày. Mẹ tôi kể, cũng vì suốt ngày đêm chăm chăm nhìn vào khung thêu, nên mắt mẹ tôi bị kém sớm, do vậy mới 28 tuổi bà đã phải đeo kính lão.
Một thời gian sau, vào ngày 19/8/1953 mẹ tôi sinh con gái đầu lòng đặt tên là Nguyễn Thị Phương Mai. Vào lúc này, đời sống gia đình cũng tạm ổn, cậu mẹ tôi ngoài việc có vốn mở hiệu ảnh Nguyễn Ninh ở chợ Tràng, còn góp được tiên mua lại căn nhà mà cậu mẹ tôi đang ở nhờ. Thế là ngoài thu nhập từ gánh hàng xén, có thêm thu nhập từ nghề ảnh, lại có nhà riêng để ở, đó thực sự là một giấc mơ có thực trong đời. Nhưng một biến cố bất ngờ ập đến, làm đảo lộn cuộc sống không riêng gì cậu mẹ tôi mà đối với cả hàng trăm nghìn người dân trong khu vực. Đó là trận lụt lịch sử năm 1953.
Lúc đó mẹ tôi sinh con gái đầu lòng mới chừng 2-3 tháng tuổi thì vướng vào trật lụt. Ban đầu là những trận mưa liên miên như trút nước. Sau đó, cả vùng Nghệ Tĩnh nước ngập mênh mông. Nhà cậu mẹ tôi ban đầu nước vào xâm xấp, sau nước dâng ngày càng nhanh khiến cậu mẹ tôi phải ôm con leo lên chạn (gác xép), nhưng chỉ được vài giờ nước đã ngập lên tới nơi, buộc phải trổ nhà leo lên nóc. Nhìn bốn xung quanh nước trắng trời, nhà cửa, đồ đạc, xác người và súc vật trôi dạt khắp nơi. Cậu mẹ tôi chỉ biết cầu trời cho tai qua nạn khỏi.
Có lẽ trời đã động lòng thương xót, nên khi nước bắt đầu ngập tới nóc, bỗng có một chiếc đò chèo tới. Người chủ đò đón cậu mẹ và chị tôi lên đò rồi chèo đi. Đò đi mãi cho tới một con thuyền khá lớn. Chủ đò bảo cậu mẹ tôi lên chiếc thuyền lớn của ông rồi lại chèo đi để cứu những người gặp nạn khác. Đến bây giờ, mỗi lần nhắc tới chuyện này mẹ tôi thường tỏ lòng biết ơn cứu mạng đối với người chủ đò đến nay vẫn không hề biết tên tuổi, quê quán ở đâu. Và một điều tôi muốn nói, thông thường những người làm nghề chài lưới rất ít khi cứu những người chết đuối, vì họ sợ làm cho hà bá nổi giận hoặc là sẽ dìm chết họ hoặc sẽ làm cho họ sạt nghiệp. Vào những năm này, dân trí của người dân rất thấp, điều đó mới thấy hết tình thương đồng loại của người dân vạn chài này, ông đã bất chấp phong tục, bất chấp nguy hiểm để cứu cậu mẹ tôi và những người gặp nạn khác thoát chết. Xin được cúi đầu để cảm tạ ơn cứu mạng của ông đối với gia đình tôi và bao gia đình khác!
Nhưng chỉ được khoảng 2 ngày, người ngư phủ này thông báo cậu mẹ tôi phải lên ở tạm trên đê vì chính quyền trưng dụng thuyền của ông đi chống lụt. Thế là vợ chồng con cái đành phải lên đê giữa trời mưa gió. Lúc này nước vẫn ngập mênh mông, trời vẫn mưa như trút nước. Cậu mẹ tôi bất lực nhìn bốn xung quanh, ngoài bộ quần áo mặc trên người tịnh không còn bất cứ một đồ vật gì có thể làm ấm người và điều nguy hiểm nhất là không hề có một chút lương thực nào để cầm hơi. Người vạn chài cũng quá nghèo không thể giúp được gì hơn ngoài bữa cơm cuối cùng trước khi ông đưa cậu mẹ tôi lên đê ở tạm. Bất lực, tuyệt vọng giữa muôn trùng sóng nước, cậu mẹ tôi không biết làm gì ngoài việc lo lắng nhìn đứa con mới mấy tháng tuổi kiệt sức do đói đang lả trên tay.
Mà nào đã hết, quãng đê cậu mẹ tôi đang đứng có nguy cơ bị vỡ, điều đó nhận thấy rất rõ bằng những vết nứt ở triền đê ngày càng to, cả tuyến đê dài như oằn lưng trước sự tấn công của sóng dữ. Cái chết đã hiện rõ nụ cười nham nhở của nó qua những vết nứt của thân đê, người ta đã bắt đầu nghe những tiếng răng rắc và những khối đất đổ ụp rồi chìm nghỉm xuống nước…
Trong lúc tuyệt vọng đến cực điểm, vị thần hộ mạng lại một lần nữa xuất hiện kịp thời. Sau khi chèo thuyền đi làm nhiệm vụ một thời gian, ông vạn chài cảm thấy băn khoăn khi nghe người ta nói khúc đê ở chỗ cậu mẹ tôi có nguy cơ bị vỡ. Thương xót đôi vợ chồng trẻ và đứa con thơ, người vạn chài này đã không quản nguy hiểm, không quản vất vả mệt nhọc, đã chèo thuyền tới đón cậu mẹ tôi đi nơi khác. Khi chiếc thuyền vừa rời khỏi một lúc, thì quãng đê cậu mẹ tôi đứng đã vỡ tung. Trong nháy mắt cả một khúc đê dài hàng trăm mét bị lũ cuốn phăng nhấn chìm trong sóng nước đục ngầu cuồn cuộn…Vâng! Thêm một lần cho phép tôi được cúi đầu cảm tạ người chủ thuyền đến giờ gia đình tôi vẫn chưa được biết tên và địa chỉ ấy.
Sau khi đón thành công cậu mẹ tôi lên thuyền, người chủ thuyền đã đưa cậu mẹ tôi lên ở tạm trong đền Vua Lê ở núi Thành. Tạm biệt người chủ thuyền, cậu mẹ tôi vô cùng xúc động, cứ đứng nhìn theo cho tới khi con thuyền mất hút trong sóng nước vô cùng…
Thoát được lưỡi hái của Thuỷ thần, cậu mẹ tôi lại phải đối diện với cái đói. Trong thời gian ở đền Vua Lê, cậu mẹ tôi được những người dân san sẻ miếng cơm giúp đỡ. Do đói, mệt đến kiệt sức nên mẹ tôi bị mất sữa buộc phải nhai cơm nguội để mớm cho chị tôi ăn. Nhưng cuộc sống cũng chỉ cầm chừng độ nhật. Cho tới một hôm, vô tình cậu tôi phát hiện trong ngăn của chiếc ví (bóp) có 5 đồng. Đây là tờ giấy bạc còn sót lại do trước đó khách tới chụp ảnh, trả cho cậu tôi tờ giấy bạc mới tinh nên cậu tôi cất để chơi. Ngay lập tức, tờ giấy bạc đã được mẹ tôi biến thành gạo, thành nước mắm…và đã trở thành cứu tinh cho cả nhà trong suốt mấy ngày sống trong đền Vua Lê.
Vài ngày sau nước bắt đầu rút, nhưng người dân vẫn chưa thể về nhà vì nước vẫn ngập trắng. Để có tiền sống qua ngày, mẹ tôi liều mạng về nhà tìm gánh hàng xén ngập chìm trong nước. Sau đó đem hàng trở lại đền Vua Lê trải hàng ra phơi cho khô, đồng thời ai mua gì thì bán luôn. Vì thế cũng có đồng ra đồng vào để sống tùng tiệm.
Một hôm, mẹ tôi thấy có một người dân vạn chài bán cá mắm trên đê. Những người mua xúm quanh tranh nhau mua cá. Mẹ tôi đến chìa tiền để mua, ông bán cá trạc trong ngoài ba mươi tuổi nhìn lên rồi quay sang bán cá cho vài người, rồi lúc đó mới bán cá cho mẹ tôi. Khi mẹ tôi đưa tiền, ông ta hỏi mẹ tôi ở đâu. Mẹ tôi cho biết đang ở trong đền Vua Lê. Ông bán cá bảo cứ về đi lát anh đến lấy tiền cũng được..
Một lát sau, người bán cá mắm tới. Sau khi biết hoàn cảnh của gia đình, người bán cá cho biết ông ở Cửa Hội. Vào thời điểm này, những người tập kết ở miền Nam ra Bắc tập trung ở Cửa Hội khá nhiều, nếu cậu tôi muốn ông sẽ đưa về nhà ông để chụp ảnh cho họ. Được nhời như cởi tấm lòng, ngay ngày hôm sau cậu tôi đã theo người dân vạn chài này về Cửa Hội với hy vọng sẽ kiếm được một số tiền. Nhưng chỉ một thời gian sau, cậu tôi quay lại buồn bã báo tin chính quyền ở đó không cho chụp ảnh để bảo đảm công tác phòng gian bảo mật.
Thế là hy vọng kiếm chút ít tiền để sống sau mùa lũ tiêu tan.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét