Đây là blog dự phòng của tôi. Blog chính tại địa chỉ: http://moterangrua.wordpress.com. Tuy nhiên, blog này vẫn đáp ứng sự tin cậy và yêu mến của các bạn!

Trôi theo dòng đời

Cuộc đời tôi là một chuyến phiêu lưu đầy mạo hiểm. Nếu một nửa sự thật là giả dối như người ta thường nói, thì một trăm phần trăm câu chuyện này giả dối như chính cuộc đời tôi!
(9)
Lại nói với số tiền kiếm được qua việc chụp ảnh cho đồng bào di cư, cậu mẹ tôi đã cải thiện được phần nào cuộc sống, mua sắm được một số phương tiện sinh hoạt gia đình và dụng cụ hành nghề, ngoài ra có đủ tiền để trả nợ cho những người thợ làm nhà.
Sau trận bão năm 1954, cuộc sống của gia đình cậu mẹ tôi dần đi vào ổn định. Tuy không khấm khá, nhưng cũng gọi là tiềm tiệm đủ ăn.
Ngày 24/7/1955, mẹ tôi chuyển dạ. Lúc này ở Vinh đang rất khó khăn, bệnh viện chưa được xây dựng, nhà hộ sinh của khu phố không có, vì thế mẹ tôi được người nhà đưa đi đẻ ở nhà hộ sinh làng Vang (thuộc một xã ở huyện Hưng Nguyên). Tại đây, mẹ tôi đã sinh người chị thứ hai của tôi và đặt tên là Nguyễn Thị Phương Lan.
Mẹ tôi kể khi sinh chị tôi rất khó khăn, vì cái đầu chị tôi to quá xoay trở mãi bà hộ sinh vẫn không thể nào kéo ra nổi. Khi mẹ tôi gần kiệt sức chị tôi mới chịu chui ra. Cứ tưởng đầu to thì người cũng không kém, nhưng không ngờ người chị tôi lại bé tẹo. Có lẽ cũng vì thế mà thay vì tên Lan như giấy khai sinh, mọi người quen gọi chị tôi với cái tên rất chi small, đó là Bé! Từ đó cái tên Bé thường được chúng tôi quen gọi ở nhà cho tới tận bây giờ. Sau khi sinh con ra, mẹ tôi nằm bải hoải vì kiệt sức, các thớ thịt cứ giần giật liên tục mãi.
Cứ tưởng đánh đuổi được thực dân Pháp xâm lược xong, một cuộc sống mới sẽ diễn ra êm đềm, ai ngờ một biến cố chung diễn ra trên toàn miền Bắc XHCN, đó là cuộc cải cách ruộng đất đánh đổ giai cấp địa chủ, phong kiến rung trời chuyển đất bắt đầu được thực hiện  thí điểm từ tháng 12/1953 tại tỉnh Thái Nguyên, sau đó lan dần ra cả nước.
Tại Nghệ An, cải cách ruộng đất được thực hiện thành 3 đợt, nhưng mạnh mẽ khốc liệt nhất có lẽ là vào đợt 3, kéo dài từ 12/1955 đến tháng 7/1956. Đợt này toàn tỉnh có 163 xã tiến hành đấu tố địa chủ. Mặc dù ở thành phố, số thành phần tư sản không bị ảnh hưởng lắm, nhưng ở nông thôn; những người bị quy là địa chủ phải chịu những thảm cảnh đau lòng, hàng loạt người bị bắt, bị tù đày, bắn chết hoặc bị bức tử…
Bị ảnh hưởng cuộc cải cách ruộng đất vào thời gian này, nên hiệu ảnh Nguyễn Ninh của cậu mẹ tôi rất vắng lặng do không có khách, thảng hoặc mới có người đến chụp vài ba kiểu, nên chỉ đủ rau cháo cầm hơi. Có thể nói đây là giai đoạn hết sức khó khăn cho không riêng gì cậu mẹ tôi, mà cho tất thảy mọi ngành nghề của xã hội thời bấy giờ. Vì ở nông thôn những cuộc đấu tố diễn ra liên miên, còn ở thành thị mọi người hoảng sợ, không dám giao thiệp với người ngoài vì sợ bị quy kết là phản động.
Điều đó cũng dễ hiểu, vì vào thời gian này tình hình an ninh chính trị ở Vinh nói riêng và Nghệ An nói chung cũng khá phức tạp, một số đảng phái chính trị như “Đảng dân chúng liên hiệp”, “Quốc dân Đảng”, “Hội thanh niên Phật tử”…tuy bị triệt phá vào đầu những năm 50 nhưng các thành viên còn sót lại vẫn đang bí mật hoạt động. Ngoài ra,  cơ quan tình báo Mỹ CIA cũng khẩn trương huấn luyện một số toán biệt kích để tung ra miền Bắc, trong đó thị xã Vinh là nơi các toán biệt kích tìm về móc nối cơ sở, vì đây là  điểm huyết mạch nối hai miền Nam-Bắc. Đó là chưa nói đến một số điệp viên của Pháp cài cắm lại cũng đang tìm mọi cách để hoạt động.
Hệ quả của các cuộc đấu tố đã dẫn đến tình trạng một số người thân của những thành phần bị quy là địa chủ phải lưu lạc tứ tán để trốn tránh sự truy bức. Trong số đó có khá đông người phải chạy ra thị xã lánh nạn. Để tồn tại, họ tìm đến những gia đình ở thị xã xin được làm thuê, làm người ở…Thật trớ trêu, mới hồi nào họ bị quy là giai cấp bóc lột, ăn trên ngồi trốc, bây giờ bị “hạ bệ” và trở thành kẻ làm thuê để kiếm sống qua ngày.
Một ngày nọ, có một người phụ nữ còn trẻ và xinh đẹp đến gõ cửa nhà cậu mẹ tôi xin ăn. Theo như chị ta nói thì mấy ngày nay chị ta không có chút gì vào bụng. Nhìn thần thái, cốt cách đủ biết chị ta vốn xuất thân là con nhà giàu có. Mẹ tôi nói người phụ nữ này có nụ cười tuyệt đẹp và lúc nào chị ta cũng vui vẻ với mọi người, dù ai nói gì chị cũng chỉ mỉm cười đáp lại. Chính nụ cười đó đã làm cậu mẹ tôi xiêu lòng, cho chị ta ở tạm một thời gian trong nhà. Bù lại, chị ta làm mọi thứ công việc lặt vặt như một “con ở” (đó là từ ngày xưa người ta thường gọi thay vì người giúp việc, hoặc Osin như ngày nay).
Một thời gian sau, một người thanh niên tên là An, chừng ngoài 20 tuổi cũng tìm đến xin giúp việc gia đình. Qua tìm hiểu, mới hay anh ta cũng con nhà địa chủ đang bị truy tìm. Thấy anh ta có vẻ hiền lành, cậu mẹ tôi thương tình cho ở. Ngày ngày anh ta dọn vườn, hoặc làm bếp hoặc bất cứ việc gì được sai khiến.
Có điều khiến mẹ tôi không yên tâm, vì sau khi có hai người lạ ở trong nhà sinh hoạt gia đình bị đảo lộn. Mẹ tôi lúc đó tuy đã hai con, nhưng còn rất trẻ và xinh đẹp, cậu tôi lại bị đau ốm liên miên, nên sự hiện diện của một chàng trai lạ trong nhà dễ dẫn đến sự bàn tán của khối xóm. Thứ nữa, sau một thời gian ở trong nhà, đã dẫn đến xích mích giữa người phụ nữ và chàng thanh niên tên An. Chị phụ nữ thường tố cáo chàng An ăn vụng, nhất là cà chua sống…Mẹ tôi nói mẹ tôi không để ý lắm đến tố cáo của người phụ nữ, nhưng sự xích mích giữa hai người khiến mẹ tôi không hài lòng và để tránh lời thị phi, nên một thời gian sau mẹ tôi cho một ít tiền và bảo người thanh niên tên An nên tìm nơi khác sinh sống.
Sau khi chàng thanh niên tên An đi một thời gian, vào một sớm nọ cậu tôi thức dậy, xuống giường xỏ chân vào dép thì không thấy dép đâu (hồi đó còn khó khăn, một đôi dép cao su (dép râu) có thể coi là một tài sản). Tìm quanh quất mãi không thấy và cậu mẹ tôi phát hiện một điều buồn lòng, đó là người phụ nữ kia biến mất. Hoá ra chị ta đã bỏ đi và lấy trộm luôn đôi dép của cậu tôi.
Sau đó lại có một người tên là Duật, con một ông Nghè ở huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), anh này trước năm 1945 làm thông phán hoặc bang tá gì đó ở Vinh, có quen biết và chơi với hai bà chị của mẹ tôi. Vào thời gian này Duật rất giàu có, thường hay đi chơi tennis hoặc đi xem đội bóng đá Áo Vàng của thị xã Vinh thi đấu.
Duật có một cô em gái tên là Sáu. Là con quan, nên dân chúng thường kính cẩn gọi là Cô Sáu. Cô Sáu rất xinh đẹp và kiêu kỳ. Hồi đó con gái mười tám đôi mươi mà chưa chồng đã gọi là ế. Nhưng cô Sáu đã ngoài hai mươi từ lâu, nhiều người đến dạm hỏi cô cũng chỉ lắc đầu. Có vẻ như cô muốn tìm cho mình một ý trung nhân thật vừa ý nhưng tìm mãi vẫn không được!
Ngày ngày, cô Sáu đi xe tay từ Nghi Xuân sang Vinh để chơi. Xe tay (hay còn gọi là xe  lôi, xe kéo) là loại xe thường dùng cho giới thượng lưu thời bấy giờ. Muốn xe di chuyển, người kéo ra sức kéo chiếc xe hai bánh này trên đó chở từ một đến hai hành khách. (Xe kéo bị cấm tại Việt Nam từ năm 1945 đến nay. Nhưng nhiều thành phố lớn trên thế giới, như Tokyo, New York, London và Toronto xe kéo vẫn còn hoạt động). Chiếc xe kéo của cô Sáu rất sang trọng, trên che võng lọng, tay kéo làm bằng đồng phía đầu uốn cong. Xe đẹp, người ngồi trên xe càng đẹp khiến cô đi đến đâu dân chúng cũng phải chỉ trỏ bàn tán và vô cùng ngưỡng mộ.
Mẹ tôi kể sau cải cách ruộng đất một thời gian khá lâu, không thấy cô Sáu đâu, mẹ tôi nhân một lần sang Nghi Xuân chơi thấy cô Sáu lúc này là một người phụ nữ luống tuổi chưa chồng, phong phanh trong chiếc áo phin trắng màu cháo lòng, mặc quần vải thô bạc thếch đang ngồi bán hàng ở chợ Giang Đình. Trông cô lúc này nghèo khổ và nhàunhĩ tới mức không ai nghĩ một thời cô là con ông Nghè, giàu có, lộng lẫy và kiêu sa bậc nhất.


Xe kéo tay (xe lôi, xe kéo)

Lại nói đến Duật. Là con ông Nghè, lại làm công chức cho Pháp, nên trong thời kỳ cải cách ruộng đất Duật bị mất việc phải sống lang thang nghèo khổ và bị địa phương truy lùng. Thời gian này, ông cũng tìm đến xin tá túc ở nhà cậu mẹ tôi để tránh sự truy lùng của đội cải cách. Cậu mẹ tôi cho trú một thời gian sau đó cũng thật lòng nói với anh ta nên đi tìm nơi khác trú ẩn, vì nếu ở đây lâu cậu mẹ tôi sợ bị liên luỵ.
Tháng 2/1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải cách ruộng đất. Tiếp đó Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện pháp sửa sai và  Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
Vào thời điểm này, nhiều người đã thoát án tử hình trong gang tấc. Mẹ tôi kể có một người tên là Trí đã bị buộc vào cọc chuẩn bị bắn thì có lệnh trên truyền xuống phải thả theo lệnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Thế là ông này thoát chết.
Từ đó, cuộc cải cách ruộng đất chấm dứt, thay vào đó là việc sửa sai, nhưng chủ yếu là khôi phục lại quyền dân sinh cho dân thường và quyền lợi chính trị cho những cán bộ, bộ đội bị quy sai, nhưng việc trả lại tài sản bị tước đoạt là điều không thể, vì đã chia hết cho những người thuộc thành phần bần cố nông trước đó.
Tuy nhiên, điều này dẫnđến một hệ luỵ khôn lường, đó là sau khi thoát khỏi bị tầm nã, những người trước đây bị quy kết là địa chủ đã tìm mọi cách để trả thù những người trước đây đấu tố họ.
Nhớ lại những ngày này, mẹ tôi nói rằng nhiều khi phải chứng kiến những cảnh đau lòng như trường hợp một người đang đi trên đường phố bỗng bị một người khác đến giằng xé lột chiếc áo len đang mặc trên người. Hoá ra, chiếc áo len này là của một người bị người kia đấu là địa chủ, khi phân chia tài sản, đội cải cách đã lấy chiếc áo len của người này cho người kia. Khi sửa sai xong, người bị mất áo rất tức quyết đòi lại cho bằng được, thế là xảy ra xâu xé. Hoặc có trường hợp xảy ra ở cầu Cửa Tiền, gần chợ Vinh. Trước đây do bị đấu tố oan, khiến gia đình người này bị khuynh gia bại sản, bố mẹ bị xử tử. Sau khi sửa sai, người này tình cờ gặp lại kẻ đã bịa đặt để đấu tố gia đình mình, căm quá ông ta đã lấy dao rạch hai mép của người kia cho hả giận…
Nhưng dù sao thì cuộc cải cách ruộng đất và sửa sai vẫn tới hồi kết thúc. Lúc này cuộc Tổng tuyển cử hai miền Nam Bắc đã thất bại. Vĩ tuyến 17 trở thành điểm chia cắt hai miền. Trong khi ở miền Nam tiếp tục giương cao ngọn cờ Độc lập Dân tộc, thì ở miền Bắc chuyển sang giai đoạn xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, là hậu phương lớn cho tiền tuyến lớn. Đây cũng là thời kỳ cả miền Bắc bước vào thực hiện việc công hữu hoá toàn dân, toàn diện.
Thời điểm này, cậu mẹ tôi bắt đầu được vận động để trở thành xã viên HTX nhiếp ảnh thị xã Vinh. Tiếp đó, ngày 09/6/1958 mẹ tôi đau đẻ và được đưa tới nhà hộ sinh của khu phố 2 ở gần cổng Cửa Tiền. Khi đứa trẻ ra đời, bà hộ sinh kêu lên “lại thêm một gái nữa”. Thấy mẹ tôi không nói gì, bà sợ mẹ tôi buồn liền giơ cao đứa trẻ lên trước mặt mẹ tôi và nói “Con gái, nhưng cái chim to bằng mũi mẹ nó”. Đứa “con gái” có “cái chim to bằng mũi mẹ nó” đó chính là tôi hẻ hẻ hẻ…
Đầu năm 1959, một biến cố lớn liên quan đến đời sống kinh tế của mỗi gia đình ở miền Bắc Việt Nam, trong đó có gia đình cậu mẹ tôi. Đó là lệnh đổi tiền của Chính phủ được ban hành ngày 28/2/1959.
(Còn nữa)

0 nhận xét:

Đăng nhận xét